Nhất Mộng Như Sơ - Chương 2:
Cập nhật lúc: 2024-11-26 15:42:30
Hà nương tử ít nói, nhưng người rất tốt. Nàng khéo tay, lúc rảnh rỗi thêu khăn tay và túi gấm, chồng nàng lại mang đi bán.
Ta may áo quần, làm giày còn tạm được, nhưng thêu thùa thì không giỏi, thường để Bảo Châu học theo nàng.
Bảo Châu kiên nhẫn, học rất ra dáng.
Cá thịt tôm còn dư sau mỗi ngày bán, đa phần đều vào bụng của Bảo Châu và hai đứa nhỏ nhà họ Hà.
Ngày hôm nay cũng như mọi ngày, chỉ khác là Biện giang đã đóng băng, ta phải ngừng việc buôn bán.
Những khách quen thích đồ ăn ta làm, ta đành làm ở nhà rồi mang đến cho họ.
Trở về ăn cơm tối xong, Bảo Châu đã buồn ngủ, ta thấy nàng ngủ rồi mới ngồi xuống vá giày bên ngọn đèn dầu.
Lửa trong lò đốt củi, khói nhiều, ta để hé cửa sổ, chờ khi đi ngủ thì tắt lửa, thông gió rồi mới dám đóng cửa.
Ta đã mười lăm, đi đâu cũng coi như là một cô nương trưởng thành.
Buôn bán trên dòng Biện giang không dễ dàng như ta tưởng, thỉnh thoảng có người quấy rối, nhất là khi ta chỉ có một mình cùng với Bảo Châu.
Nhưng sông có quy tắc của sông, nộp phí bảo kê thì tự khắc có người bảo vệ.
Ta không ngại cực khổ, chỉ sợ gặp rắc rối.
Tiếng gõ cửa vang lên, ta giật mình, vì ở Biện Kinh ta và Bảo Châu nương tựa lẫn nhau, làm gì có ai đến tìm chúng ta lúc trời tối thế này?
"Ai đó?"
Ta cất tiếng hỏi lớn.
"Ta họ Ôn."
Người bên ngoài hạ thấp giọng, là một giọng trầm ấm dễ nghe. Họ Ôn?
Ta chưa kịp nghĩ nhiều, liền mặc áo, xuống giường mở cửa.
Người bên ngoài lách nhanh vào, ta vội vàng đóng cửa lại.
Người đó đứng quay lưng, đứng bên giường nhìn Bảo Châu.
Nhà nhỏ, giường chỉ ngăn với bên ngoài bằng một tấm rèm mỏng, bên trong là phòng ngủ, bên ngoài làm phòng khách.
Giờ đây, rèm đã bị hắn kéo ra, mọi thứ hiện rõ trong tầm mắt.
Hắn dáng người rất cao, khoác một chiếc áo choàng màu đen, tóc dùng một dải ngọc buộc chặt lại.
Ta mơ hồ đoán được hắn là ai, nhưng không dám hỏi, chỉ lặng lẽ chờ hắn nhìn đủ.
Ta thêm củi vào lò, đun một ấm nước nóng, rồi rót một chén trà cho hắn.
Trà này là loại thường ngày ta pha cho khách trên thuyền, không phải hạng sang nhưng cũng không quá tệ.
Đợi hắn kéo rèm lại và bước ra, ánh đèn dầu lờ mờ, nhưng ta vẫn nhìn rõ hắn.
Người trong phủ thường nói hắn sinh ra tựa như “*chi lan ngọc thụ”.
(*chi lan ngọc thụ: ca ngợi một người có nhân cách cao quý, phẩm chất thanh cao và vẻ ngoài xuất chúng)
Ta lớn đến chừng này, chưa từng hiểu chi lan ngọc thụ là gì, nhưng hôm nay gặp hắn, rốt cuộc cũng hiểu ra.
Hắn rất giống phu nhân, chỉ là lông mày dày hơn, dài hơn.
Đôi mắt đào hoa trời sinh, dù không cười cũng toát lên vẻ phong lưu đa tình, sống mũi cao thẳng, đôi môi không quá mỏng, đường nét cằm rõ ràng.
Nhìn kỹ, dưới môi có một nốt ruồi đen nhỏ, người thì lạnh lùng vô cùng.
Vừa lạnh vừa đầy sức hút, nếu dùng từ “mỹ nam” để miêu tả, e là quá nông cạn.
Quan trọng hơn, hắn rất trắng.
Hắn không cởi áo choàng, ngồi xuống ghế, cầm chén trà ta rót.
Đôi tay của hắn cũng đẹp, quả là người đẹp đến mức không chê vào đâu được.
Đôi mắt sâu thẳm, khi nhìn người khiến ta có cảm giác khó đoán, làm tim không khỏi lo lắng.
Nhìn trang phục của hắn, rõ ràng không phải dáng vẻ của kẻ sa sút.
Áo dài trắng dưới lớp áo choàng đen được may bằng vải gấm mây, loại vải quý giá vô cùng, từng tấc vải đáng giá từng tấc vàng.
Hắn không rơi vào cảnh khốn cùng, vậy tại sao lại không cứu những người còn lại trong nhà họ Ôn?
Triều đình đầy rẫy mưu mô, ta không dám hỏi nhiều, cũng không muốn hỏi, chỉ đứng lặng bên cạnh chờ hắn lên tiếng.
"Không vội không loạn, quả là có chút gan dạ, bảo sao có thể bảo vệ được Quỳnh Nương chu toàn."
Hắn nói, giọng trầm thấp và lạnh lùng.
Ta không dám nhìn hắn thêm, chỉ cúi đầu, không trả lời gì.
"Vật này giao cho ngươi, ngày mai tìm cách ra khỏi thành, đem nó đưa đến tay Pháp Huệ phương trượng ở chùa Kê Minh. Chuyện này rất quan trọng, nhất định phải cẩn thận. Nếu không còn cách nào khác, ta đã chẳng tìm đến ngươi."
Ta vốn không muốn nhận, nhưng nghe hắn nói đến chữ "không còn cách", trong giọng nói có sự gấp gáp và bất lực, cuối cùng ta đành cắn răng nhận lấy.
Thứ ấy được bọc trong vải, trông giống một quyển sách, không dày lắm, khi đưa vào tay ta, vẫn còn vương hơi ấm từ tay hắn.
"Công tử, xin hãy bảo trọng. Người nhà họ Ôn còn đang ở trong lao chờ đợi ngài!"
Hắn đứng dậy định đi, ta cuối cùng không nhẫn tâm, vì Bảo Châu, vì nhà họ Ôn, mà nói ra những lời ấy.
Hắn gật đầu, rồi bất ngờ mỉm cười, nụ cười như ánh mặt trời chói lóa.
"Ngươi không sợ nhà họ Ôn và ta đều là người xấu sao?"
"Ta chỉ biết nhà họ Ôn đối xử tốt với ta, vậy là đủ."
Nếu không có nhà họ Ôn, ta cũng chẳng biết bây giờ mình đã ra sao.
Hắn gật đầu lần nữa, rồi nhanh chóng rời đi.
Chùa Kê Minh không phải ngôi chùa bình thường, mỗi tháng chỉ mở cửa vào ngày mùng Một và Rằm.
Ngày mai không phải ngày mùng Một cũng không phải Rằm, chỉ việc vào được cửa chùa đã là chuyện khó, huống chi là gặp phương trượng.
Sáng sớm hôm sau, ta gửi gắm Bảo Châu cho Hà nương tử, rồi lên đường đến núi Kê Lồng.
Núi Kê Lồng gọi là núi, nhưng không hiểm trở, ta quen làm việc nặng nhọc, đi vài bước cũng chẳng phải chuyện khó khăn.
Đến trước cổng chùa, cửa đóng chặt, bên trong vọng ra tiếng tụng kinh và tiếng mõ gỗ.
3
Ta gõ cửa nhiều lần, cuối cùng mới có một tiểu sa di bước ra.
Cậu bé trông chỉ khoảng năm, sáu tuổi, chính là cái tuổi đáng yêu nhất, da dẻ trắng trẻo, mịn màng.
Nhìn thấy ta, cậu đặt tay lên ngực, cung kính nói:
"Nữ thí chủ muốn lên hương, hoàn nguyện, xin hãy đợi mùng Một hoặc Rằm hẵng tới đây."
Nhìn cậu đáng yêu, ta không nhịn được muốn xoa đầu, nhưng lại sợ có điều kiêng kỵ, liền lấy từ trong túi ra hai viên kẹo hạt thông, vốn là để dỗ dành Bảo Châu.
Cậu bé mím môi, ngập ngừng không dám nhận, ta bèn mở tay cậu ra, đặt vào lòng bàn tay.
"Ta không đến để lên hương hay hoàn nguyện, chỉ muốn nhờ cậu báo với phương trượng rằng, nữ nhi của ông ấy ở tục gia đến tìm ông ấy."
Ta biết nói dối là không đúng, nhưng còn cách nào khác?
Nếu không phải từng nghe được một đoạn chuyện phiếm trên thuyền, ta cũng chẳng nghĩ ra được chiêu này.
Pháp Huệ phương trượng, trước khi xuất gia, vốn là thân vương của tiên hoàng, đương kim bệ hạ còn phải gọi ông là Tiểu Vương Thúc.
Năm đó, khi Ngũ vương tạo phản, ông nhận lệnh tiên hoàng dẫn quân bình định.
Hoài Vương dùng gia quyến làm con tin, ép ông rút quân.
Vương phi sợ ông vì bị ràng buộc mà chùn bước, liền mang theo con cái, châm lửa thiêu cháy toàn bộ Vương phủ.
Khi ông phá thành trở về, chỉ còn lại hơn trăm thi thể cháy đen không thể nhận dạng.
Nghe nói, có một nhũ mẫu trốn thoát cùng tiểu quận chúa, nhưng không rõ đã đi đâu.
Ông tìm kiếm nhiều năm không thấy, cuối cùng chán nản, xuất gia tại núi Kê Minh.
Nếu tiểu quận chúa còn sống, giờ cũng đã mười lăm, mười sáu tuổi.
Tiểu sa di còn nhỏ, tất nhiên không biết những chuyện trong quá khứ của phương trượng, nhưng cậu bé cũng chạy vào trong tìm người.
Đã cả gan đến đây rồi, ta cũng không cảm thấy sợ hãi nữa.
Còn chuyện giả mạo quận chúa, nghe nói trước đây từng có nhiều người dẫn con đến vương phủ nhận thân, tuy đều không phải, nhưng cũng chẳng thấy ai bị chém đầu.
Huống hồ, vương gia giờ đã là phương trượng, chẳng lẽ còn muốn sát sinh?
Không bao lâu sau, một vị hòa thượng béo bước ra.
Bụng tròn trịa, mũi to, đầu mũi đỏ hồng, hai má căng đầy thịt, nếu là đặt trên người khác có lẽ là hung tợn, nhưng ở ông lại khiến người ta cảm thấy dễ gần, đáng yêu.
Ông nhìn ta từ trên xuống dưới một lượt, mỉm cười hỏi:
"Nữ thí chủ làm sao khẳng định mình chính là nữ nhi của phương trượng?"
Ta vốn không phải, tất nhiên không dám khẳng định.
"Chỉ là đoán. Nếu lời đồn dân gian là thật, thì ta đều khớp với mọi điều. Còn thật giả thế nào, chỉ có thể gặp phương trượng rồi mới biết, dù sao người biết rõ nhất vẫn là ông ấy."
Dù sao gặp được người là được, thật giả lẫn lộn, ta cũng chẳng quan tâm.
Hòa thượng béo nghiêng đầu nhìn tiểu sa di, thấy má cậu phồng lên, liền bảo cậu xòe tay ra.
Tiểu sa di còn quá non nớt, thật thà xòe tay ra.
Ngón tay mập mạp của hòa thượng béo bóp lấy viên kẹo còn lại, nhét thẳng vào miệng mình, rồi chống bụng tròn quay đi vào trong.
Tiểu sa di ngơ ngác, ta nhìn bộ dáng của cậu, bất lực vỗ vai cậu.
"Cậu tên là gì?"
"Minh Kính."
Cậu cúi mặt, như sắp khóc.
"Minh Kính à, nghe lời tỷ tỷ này. Mỗi lần sư phụ cậu ngủ say, hãy cào vào cửa phòng của ông ấy. Nếu ông ấy còn dám cướp đồ ăn của cậu, thì hãy làm ông ấy mất ngủ. Nếu vẫn không được, trước khi ăn, nhổ hai bãi nước bọt vào đồ ăn, xem ông ấy còn nuốt nổi không. Lần này xem như tha cho ông ấy, lần sau tỷ tỷ đến, nhất định sẽ mang thêm kẹo cho cậu."
Ta ngồi xuống trước mặt, dỗ dành cậu.
Có lẽ Minh Kính chưa từng nghe những lời "ác độc" như vậy, nhất thời sững sờ, chỉ tròn mắt nhìn ta.
Sư phụ cậu đến rất nhanh, dẫn ta vào trong, Minh Kính đi bên cạnh, dáng vẻ như muốn nói gì đó lại thôi.
Ta đắc ý cười với cậu, chắc cậu nghĩ ta thật lợi hại.
Pháp Huệ phương trượng vừa giảng kinh xong, chờ ta dưới gốc cây bồ đề trong hậu viện.
Ngày đông giá lạnh, chỉ riêng cây này vẫn xanh mướt như mới.
Nếu không phải đầu trọc và mặc áo cà sa, ai có thể nghĩ ông là một nhà sư?